Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS 2015) là đạo luật quan trọng nhằm thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và các quy định của Hiến pháp năm 2013. Mục tiêu cốt lõi của BLTTHS 2015 là bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện và xử lý, đồng thời không được làm oan người vô tội. Để đạt được mục tiêu này, Bộ luật đã tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Trong phạm vi các chế định về bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, BLTTHS 2015 đã có nhiều điểm mới nổi bật, phát huy ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn và vận dụng linh hoạt những ưu điểm của mô hình tố tụng tranh tụng.
I. Mở rộng đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa
BLTTHS 2015 đã mở rộng phạm vi đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa so với BLTTHS 2003.
Theo BLTTHS 2015, có 04 (bốn) đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa, bao gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, và bị cáo. So với BLTTHS 2003 (chỉ quy định 03 đối tượng là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), BLTTHS 2015 đã bổ sung thêm người bị bắt.
Điều 58 BLTTHS 2015 quy định cụ thể, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã có quyền tự bào chữa, hoặc nhờ người bào chữa. Việc mở rộng này nhằm xác định thời điểm được bảo đảm quyền bào chữa là từ khi xảy ra sự kiện pháp lý có người bị bắt (trong trường hợp quả tang hoặc bị bắt theo quyết định truy nã), thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013.
II. Quy định về người bào chữa (Điều 72 BLTTHS 2015)
BLTTHS 2015 quy định người bào chữa có thể là 04 nhóm người, bao gồm: Luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, và trợ giúp viên pháp lý.
So với BLTTHS 2003 (chỉ có 03 nhóm người), BLTTHS 2015 đã bổ sung thêm trợ giúp viên pháp lý. Trợ giúp viên pháp lý (thường được gọi là luật sư công) được tham gia bào chữa trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý, ví dụ như người nghèo, người có công với cách mạng, người già cô đơn từ đủ 60 tuổi trở lên, người khuyết tật, nạn nhân theo Luật phòng, chống mua bán người, v.v.. Việc bào chữa của trợ giúp viên pháp lý mang tính chất hỗ trợ, giúp đỡ miễn phí.
Về những người không được bào chữa, khoản 4 Điều 72 quy định 11 trường hợp không được tham gia bào chữa. So với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 bổ sung thêm 04 người không được bào chữa, gồm: người dịch thuật, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đã bị kết án mà chưa được xóa án tích, và người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
III. Tăng cường quyền hạn của người bào chữa (Điều 73)
Vai trò của người bào chữa ngày càng được chú trọng, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. BLTTHS 2015 bổ sung 05 quyền mới cho người bào chữa:
- Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt. BLTTHS 2003 không cho người bào chữa có mặt khi người tiến hành tố tụng lấy lời khai của người bị bắt.
- Quyền hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can sau khi người có thẩm quyền kết thúc mỗi lần lấy lời khai hoặc hỏi cung. Người bào chữa có thể thực hiện quyền này mà không cần sự đồng ý của người tiến hành tố tụng.
- Quyền được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác. Quy định này thay thế quy định trước đây của BLTTHS 2003 là người bào chữa phải đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng báo trước.
- Quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
- Quyền thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ. BLTTHS 2015 quy định 04 chủ thể được quyền thu thập chứng cứ (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và người bào chữa), bổ sung thêm người bào chữa so với 03 chủ thể của BLTTHS 2003.
IV. Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn (Điều 74)
BLTTHS 2015 quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn. Cụ thể, trường hợp bắt, tạm giữ người, người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Quy định này cụ thể hóa khoản 4, Điều 31 Hiến pháp 2013 về việc người bị bắt có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư, người khác bào chữa.
V. Lựa chọn người bào chữa và quy định về người thân thích (Điều 75)
BLTTHS 2015 quy định người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn. So với BLTTHS 2003 (chỉ 02 người có quyền lựa chọn là người bị buộc tội và người đại diện hợp pháp), BLTTHS 2015 đã bổ sung thêm người thân thích.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự, người thân thích bao gồm: Vợ, chồng, cha, mẹ, con; nếu không có thì là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột; nếu không có ai trong số này thì là bác, chú, cậu, cô, dì.
BLTTHS 2015 cũng quy định trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền chuyển đơn yêu cầu người bào chữa:
- Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu của người bị bắt, bị tạm giữ.
- Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu của người bị tạm giam.
Các cơ quan này phải chuyển đơn cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích. Nếu người đại diện hoặc người thân thích nhờ người bào chữa, cơ quan có thẩm quyền phải thông báo ngay cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam để họ có ý kiến. Quy định này nhằm bảo đảm quyền của người được bào chữa và tôn trọng ý kiến của người bị buộc tội.
VI. Trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa (Điều 76)
Trong các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa, nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa.
BLTTHS 2015 quy định 03 trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa:
- Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình.
- Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa.
- Người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
BLTTHS 2015 đã mở rộng thêm 02 trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa so với BLTTHS 2003 (chỉ bắt buộc đối với tội có khung hình phạt cao nhất là tử hình) là mức hình phạt cao nhất 20 năm tù và tù chung thân.
VII. Thủ tục đăng ký bào chữa được rút gọn (Điều 78)
BLTTHS 2015 đã thay thế quy định cấp giấy chứng nhận bằng thủ tục đăng ký bào chữa. Trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký bào chữa.
- Thời hạn xử lý: Trong 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ, nếu không thuộc trường hợp từ chối thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký.
- Giá trị sử dụng: Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng.
Quy định này rút ngắn thời hạn cấp đăng ký bào chữa bằng 1/3 về mặt thời gian (so với 03 ngày của BLTTHS 2003) và chỉ phải đăng ký 01 lần (thay vì 03 lần, do 01 cơ quan cấp thay vì 03 cơ quan cấp).
VIII. Quyền từ chối Người bào chữa và các trường hợp ngoại lệ (Điều 77)
Người bị buộc tội có quyền tự mình bào chữa, và nếu xét thấy có khả năng, họ có quyền từ chối luật sư chỉ định.
Những người có quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa bao gồm:
- Người bị buộc tội (người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo).
- Người đại diện của người bị buộc tội.
- Người thân thích của người bị buộc tội.
Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản đưa vào hồ sơ vụ án.
Trường hợp ngoại lệ (Không được tự mình từ chối luật sư chỉ định): Bị cáo/người bị buộc tội không được tự mình từ chối luật sư chỉ định trong các trường hợp họ là:
- Người có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa;
- Người có nhược điểm về tâm thần;
- Hoặc là người dưới 18 tuổi.
Trong các trường hợp này, việc từ chối người bào chữa chỉ định phải thông qua người đại diện hoặc người thân thích của họ. Việc chỉ định người bào chữa cho các đối tượng này là bắt buộc, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Nếu xảy ra việc từ chối người bào chữa, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ lập biên bản và chấm dứt việc chỉ định.
IX. Chế định mới: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác
BLTTHS 2015 đã đưa vào chế định mới về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, điều mà BLTTHS 2003 chưa có.
- Thời điểm bảo vệ: Từ khi Cơ quan điều tra quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố.
- Người bảo vệ (04 người): Luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện, và trợ giúp viên pháp lý.
- Quyền của người bảo vệ (05 quyền): Đưa ra chứng cứ; Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ; Có mặt khi lấy lời khai (được hỏi người bị tố giác sau khi người có thẩm quyền kết thúc lấy lời khai); Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan/người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Các quy định mới này khẳng định chính sách của Đảng, Nhà nước về quyền con người ngày càng được tôn trọng và bảo đảm, tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện tốt vai trò của mình trong hoạt động tố tụng./.
ABALAW

